rss
twitter
    Find out what I'm doing, Follow Me :)

Tiểu luận nhóm 1 -H33: Phân tích chủ trương và việc thực hiện chủ trương kết hợp đánh - đàm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

TÓM TẮT NỘI DUNG


Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam đã thực hiện chính sách “Đánh - Đàm” hết sức sáng tạo trong giai đoạn 1968-1973. Nhưng đã có rất nhiều ý kiến tranh luận rằng, liệu chính sách này có thực sự là sự lựa chọn đúng đắn và hợp lí vào giai đoạn này? Nếu như sự lựa chọn này là đúng đắn, thêm một câu hỏi được đặt ra rằng, giai đoạn 1968-1973 có những yếu tố nào khiến cho chính sách “Đánh - Đàm” thực sự phát huy được những hiệu quả to lớn như vậy? Những năm tháng này, trước tình hình quốc tế và trong nước thuận lợi cho Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã có nhận thức đúng đắn và đưa ra chính sách “Đấu tranh quân sự kết hợp chặt chẽ với mặt trận ngoại giao” là vô cùng hợp lí. Tìm hiểu kĩ càng bối cảnh trong và ngoài nước, Việt Nam đã đề ra mục tiêu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Để hướng tới mục tiêu này, chính sách đối ngoại cơ bản của Việt Nam là: đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị và ngoại giao. Ba mặt trận này phải luôn được song hành, gắn bó khăng khít và mật thiết với nhau. Việt Nam hiểu rằng, nếu chỉ đấu tranh quân sự, Việt Nam sao có thể chống trả lại lực lượng hùng hậu của quân sự Mỹ? Nếu chỉ đấu tranh trên bàn đàm phán mà không có thắng lợi quân sự, Việt Nam sao có tư cách nói chuyện với đế quốc Mỹ? Chính vì thế “Đấu tranh quân sự - Đấu tranh ngoại giao” là sự lựa chọn hoàn toàn hợp lí. Chính sách này đã thực sự phát huy hiệu quả to lớn , góp phần không nhỏ vào chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta trước đế quốc Mỹ . 


LỜI MỞ ĐẦU

Trong chính sách đối ngoại, quân sự và ngoại giao có một mối quan hệ vô cùng mật thiết, một sự gắn bó khăng khít, chặt chẽ với nhau. Chiến thắng trên mặt trận quân sự sẽ đưa lại những ưu thế và thuận lợi trên bàn đàm phán, ngược lại chiến thắng trên bàn đàm phán sẽ lại là động lực cổ vũ cho mặt trận quân sự, đưa chiến thắng trên chiến trường lên một tầm cao mới. Nhìn nhận quân sự và ngoại giao là hai mặt trận hữu cơ, Đảng và Chính phủ Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đưa ra kế sách “ đánh-đàm” đầy sáng tạo. “Đánh-đàm” chính là nghệ thuật đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh ngoại giao. Chính sách “vừa đánh vừa đàm” linh hoạt thể hiện đường lối đấu tranh khôn ngoan của một dân tộc bé nhỏ như Việt Nam chống lại sự xâm lược của một đế quốc hùng mạnh với tiềm lực quân sự hùng hậu như Mỹ. Lịch sử đã cho thấy trong những cuộc chiến không cân sức giữa một quốc gia nhỏ yếu chống lại một nước lớn thì việc đè bẹp quân xâm lược bằng sức mạnh quân sự tổng hợp là điều không thể , vì vậy mà đấu tranh “giành thắng lợi từng bước” là sự lựa chọn thông minh hơn cả. Thông thường trong chiến tranh, mặt trận chính trị, quân sự mang tính chất quyết định nhưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Đảng ta đã nâng ngoại giao lên thành một mặt trận có vai trò chiến lược, song hành cùng những bước tiến của ta trên chiến trường. Đã có nhiều quan điểm cho rằng đàm sẽ cản trở đánh, chỉ dùng biện pháp quân sự-chính trị mới có thể buộc Mỹ phải chấp nhận những yêu cầu của ta ; và cũng có không ít chính trị gia đưa ra quan điểm rằng đánh sẽ phá vỡ đàm, Việt Nam không thể thắng Mỹ nên sớm đi vào đàm phán nhưng lịch sử đã chứng minh những quan điểm đó là không chính xác.Một câu hỏi đặt ra là, xét trong toàn cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ của chúng ta,tại sao cục diện đánh- đàm của ta chỉ phát huy hết sức mạnh vào giai đoạn 1968-1973? Tại sao trước 1968, ta cũng đã dành được những thắng lợi to lớn trên chiến trường như đánh bại chiến dịch chiến tranh cục bộ 1965-1968 của địch, nhưng vẫn không thể triển khai cục diện đánh – đàm có hiệu quả ? Để dẫn tới đàm phán trong chiến tranh, cần rất nhiều yếu tố, trong đó có ba yếu tố lớn. Đó là yếu tố về xu thế trên thể giới , về chủ trương của ta, yếu tố về hoàn cảnh của đối phương, yếu tố về nhận thức của ta , ta nhận thức được đối phương đang lâm vào tình cảnh buộc phải đàm phán ,để tạo sức ép cả về mặt quân sự lẫn ngoại giao. Áp dụng lập luận này vào cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta, nhóm chúng tôi sẽ chỉ ra những nguyên nhân tại sao 1968-1973 là giai đoạn kết hợp đánh – đàm hiệu quả nhất.



I. BỐI CẢNH
  

1. Bối cảnh quốc tế:
Có thể nói, bối cảnh quốc tế trong thời kì này hết sức phức tạp. Giai đoạn này vẫn là giai đoạn của cuộc chiến trạnh lạnh giữa 2 phe XHCN và TBCN đứng đầu là 2 cường quốc Liên Xô - Mỹ. Nó đan xen cả thời kì hoà hoãn và đối đầu giữa hai phe. Cuộc chiến tranh Triều Tiên diễn ra vào 1950 – 1953 (đối đầu gián tiếp giữa Liên Xô – Hoa Kì) đã đình chiến và làm dịu đi không khí chiến tranh trên thế giới nhưng chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang vẫn diễn ra gay gắt. Bên cạnh đó phải kể đến những mâu thuẫn trong nội bộ phe XHCN, đặc biệt là mâu thuẫn Xô – Trung, nó có ảnh hưởng rất lớn tới cách mạng Việt Nam vì đây là 2 nước viện trợ lớn nhất về người và của cho cách mạng Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đã diễn ra và giành thắng lợi, hệ thống thuộc địa của CNTB đã dần bị sụp đổ. Đặc biệt sau cuộc nổi dậy mùa xuân 1968, có nhiều nước TB phương Tây trong đó có một số đồng minh của Mỹ muốn quan hệ với ta. Nhân dân trên thế giới ở nhiều quốc gia đã có những phản ứng khá mạnh đối với cuộc chiến của Mỹ đối với Việt Nam, đã có rất nhiều phong trào nhân dân trên thế giới diễn ra để ủng hộ cách mạng Việt Nam. Không chỉ nhân dân các nước mà nhân dân Mỹ cũng phản đối cuộc chiến này, xuất hiện những khẩu hiệu đấu tranh đòi nhà cầm quyền Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh ở VN. Bản thân giới cầm quyền Mỹ, ngay trong chính phủ và quốc hội cùng tồn tại những quan điểm khác nhau về chiến tranh VN, và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ trong giai đoạn này là một nhân tố ảnh hưởng tích cực tới cách mạng VN.

2. Bối cảnh trong nước:
Sau khi hất cẳng Pháp, Mỹ đã nhảy vào Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược. Năm 1960, sau phong trào Đồng Khởi, nhận thấy kế hoạch xâm lược đang bị đe doạ, Mỹ đã leo thang chiến tranh ra miền Bắc bằng kế hoạch “chiến tranh đặc biệt”. Tháng12 – 1967, BCT đã ra một quyết định lịch sử, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kì mới, thời kì tiến lên giành thắng lợi bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào các đô thị, dinh Mỹ - nguỵ trên toàn miền Nam. Sau những thất bại ở các kế hoạch chiến tranh và đặc biệt là sau thất bại của “chiến tranh cục bộ” của ĐQM, Mỹ vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược, những thắng lợi của cách mạng VN đã đẩy Mỹ vào thế phòng ngự, bị động, chuyển từ chiến dịch phản công sang chiến dịch phòng ngự. Trong khoảng thời gian này, chính trong quan hệ Mỹ - nguỵ cũng có những bất đồng về lợi ích, diễn ra ngày một sâu sắc. Sau hàng loạt chiến thắng lớn như chiến thắng mùa khô 65 – 66, 66 – 67, đặc biệt là cuộc tấn công tết Mậu Thân (1968) chúng ta đã cho Mỹ thấy được sức mạnh và sự quyết tâm của nhân dân Việt Nam, làm Mỹ lung lay dã tâm xâm lược, buộc Giônxơn phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với ta ở hội nghị Paris. Trong giai đoạn này, một sự kiện không thể không nói đến chính là sự thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam (1972) và trận Điện Biên Phủ trên không đã tạo nên bước ngoặt lớn trong cách mạng VN, buộc Mỹ phải kí vào hiệp định Paris cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của VN. 

  Nhận thức được sự yếu thế của địch ta liên tục gây sức ép trên chiến trường và trên bàn đàm phán, đồng thời đề ra mục tiêu và nhiệm vụ nhằm mở ra cục diện “đánh- đàm” có hiệu quả.



II. MỤC TIÊU VÀ CHÍNH SÁCH

1. Mục tiêu:
Mục tiêu chủ đạo trong giai đoạn này là tiếp tục nhiệm vụ lớn nhất của cách mạng nước ta từ 7/1954 đó là phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. 
Như vậy mục tiêu nhất quán trong giai đoạn này vẫn là: “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” được thực hiện với chiến lược chung: kết hợp quân sự, chính trị, ngoại giao (Đặc biệt vai trò của chiến lược đánh – đàm trong giai đoạn này được nhấn mạnh). 

Về Quân sự: chiến tranh du kích kéo dài , trước hết là đánh bại chiến lược “ Việt Nam hoá chiến tranh”.
Về Chính trị: tuyên bố của Hồ Chủ tịch (17/7/1966) “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi.” Ta vạch rõ “ Việt Nam hoá chiến tranh” là tăng cường mở rộng chiến tranh, gây thêm tội ác chiến tranh, và ý đồ đơn phương rút quân của Mỹ không thông qua thương lượng không phải là giải pháp đem lại hoà bình. 
Về Ngoại giao: huy động sự ủng hộ của quốc tế. Ngoại giao trở thành một mặt trận “tích cực và chủ động” (NQ 13 BCT 12/1967). Với mục tiêu đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ chấp nhận một kết thúc thông qua đàm phán, ta tiến tới việc đưa ra các điều khoản sau:
- Đòi rút hết quân đội Mỹ và các nước đồng minh ra khỏi đất nước ta.
- Chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc và mọi hành động chiến tranh khác chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước độc lập có chủ quyền.

Đánh giá: Việc chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc là yêu cầu thực tế nhất và thu hút được dư luận, tạo sức ép lớn nhất với Mỹ, đưa đến sự phân hoá quan trọng trong nội bộ thế lực thù địch. Đồng thời điều đó cũng đem lại kết quả thiết thực là bảo vệ được miền Bắc, hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, cơ sở quan trọng để làm nghĩa vụ quốc tế đối với cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân Campuchia và Lào, và điều quan trọng là bẻ gãy một trong hai phương thức tiến hành chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. 

2.Chính sách : 
Đảng ta chủ trương kiên trì cuộc đàm phán trực tiếp hai bên và bốn bên với Mỹ ở Paris, duy trì cục diện vừa đánh vừa đàm, phát huy thắng lợi ở chiến trường, thúc đẩy Mỹ xuống thang chiến tranh, làm thất bại về mặt quốc tế của chiến lược “ Việt Nam hoá chiến tranh”, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận thế giới với việc ta trừng trị Mỹ nguỵ lấn chiếm, tác động vào nội bộ Mỹ, đồng thời ngăn chặn khả năng Mỹ can thiệp trở lại. Từ đó thông qua đàm phán và vận động quốc tế tạo ra sức ép bên trong và bên ngoài nước Mỹ, chấm dứt chiến tranh. Ngoài ra ta còn chủ trương lợi dụng mâu thuẫn, khai thác những khó khăn trong nội bộ Mỹ, Nguỵ và mâu thuẫn giữa Mỹ và Nguỵ Bên cạnh đó đề cao vị trí của Mặt trận Dân tộc giải phóng (và Chính phủ Cách mạng lâm thời sau này). Từ đó góp phần giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc, hoà hợp dân tộc nhằm cô lập bọn tay sai ngoan cố, tích cực và khôn khéo tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và chi viện vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ ngày càng mạnh mẽ, có hiệu quả của phong trào nhân dân, các tầng lớp xã hội ở các nước khác nhau trên thế giới, chú trọng phối hợp với xu hướng phản chiến ở nước Mỹ, hướng tới đòi Mỹ rút ra khỏi Việt Nam và Đông Dương.
Với chính sách như vậy đóng vai trò tích cực, khẳng định uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Ngoại giao Việt Nam dân chủ Cộng hoà bao quát những vấn đề chung của cả nước chú trọng đến đoàn kết các lực lượng đồng minh chiến lước. Trong khi đó, ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời quan tâm trước hết đến những vấn đề đối ngoại của miền Nam, tranh thủ rộng rãi các lực lượng chính phủ và phi chính phủ ở năm châu lục. Chính sách và mạng lưới hoạt động đối ngoại “ tuy hai mà một, tuy một mà hai” linh hoạt đã đem lại kết quả hết sức to lớn, đúng như Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 4-1969 đã nêu rõ “ Ngoại giao trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”.
III. CÁC GIAI ĐOẠN KHÁNG CHIẾN

1. Giai đoạn 1 (1967 – 1968)
Trong giai đoạn thứ nhất này, chúng ta cùng đặt ra 1 câu hỏi: Tại sao mãi đến năm 1968 ta mới xây dựng được cục diện vừa đánh vừa đàm với Mỹ?

Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản. Ngụy quyền rơi vào khủng hoảng và có nguy cơ tan rã. Trước tình hình đó, Mỹ đã đưa quân vào trực tiếp chiến đấu cứu lấy Ngụy quyền, bám giữ miền Nam Việt Nam, quyết tâm xâm lược nước ta thông qua chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và tiến hành leo thang bắn phá miền Bắc. Đồng thời Mỹ đã dùng thủ đoạn ngoại giao để lừa gạt nhân dân Mỹ và dư luận thế giới. Mỹ rêu rao rằng việc “đưa quân vào miền Nam là thực hiện cam kết với đồng mình”, việc đánh phá miền Bắc là “hành động trả đũa” cho việc “miền Bắc xâm lược miền Nam” và triển khai các chiến dịch hòa bình, đòi Việt Nam “đàm phán không điều kiện”.
Đứng trước thử thách mới, ta đã vận dụng linh hoạt biện pháp quân sự, chính trị và ngoại giao, đập tan âm mưu và luận điệu xảo quyệt của Mỹ. Ta đã giành thắng lợi trên chiến trường và tranh thủ được sự ủng hộ của chính phủ và nhân dân khắp thế giới.
 Trên mặt trận ngoại giao, ta thực hiện chủ trương mới, giành thế chủ động và áp đảo trên mặt trận ngoại giao bằng việc ra các tuyên bố.
Tuyên bố ngày 28/01/1967 về việc VNDCCH với Mỹ có thể nói chuyện được. Tuyên bố ngày 29/12/1967 về việc VNDCCH sẽ nói chuyện với Mỹ về các vấn đề có liên quan. Hai tuyên bố đã gây sức ép với Mỹ và khẳng định với dư luận thế giới về luận điệu lừa bịp của Mỹ trong vấn đề Việt Nam.
Trước tình hình mới, nhận thấy thế yếu của địch, ta quyết định tổ chức tổng khởi nghĩa “giành thắng lợi quyết định”, từ đó giành thế chủ động hoàn toàn trên mặt trận ngoại giao. Tổng khởi nghĩa diễn ra vào Tết Mậu Thân 1968 đã giành thắng lợi to lớn, giáng đòn mạnh vào chính quyền Mỹ và tạo nên chấn động lớn trong lòng nước Mỹ và trên thế giới. Chính quyền Mỹ rơi vào khủng hoảng, mâu thuẫn nội bộ trở nên gay gắt. Mặt khác, phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam ở Mỹ và trên thế giới trở nên quyết liệt. Trước sức ép lớn đó, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với ta.

Để trả lời cho câu hỏi đưa ra, chúng ta thấy nguyên nhân như sau:
Về phía thế giới: Cần có thời gian để dư luận thế giới có sự hiểu biết và nhận thức đúng đắn về vấn đề Việt Nam. Thấy được âm mưu phản động của Mỹ trong việc xâm lược Việt Nam và khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ hết sức chính đáng của nhân dân Việt Nam. Từ đó mà chính phủ và nhân dân các nước có sự ủng hộ và giúp đỡ phong trào cách mạng Việt Nam, lên tiếng ủng hộ Việt Nam và gây sức ép với Mỹ buộc Mỹ phải chấm dứt hoạt động chiến tranh phi nghĩa, phản cách mạng của mình.
Về phía Mỹ: Mỹ ngoan cố thực hiện âm mưu xâm lược miền Nam Việt Nam hòng chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành khu căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ trong khu vực. Một thời gian dài tham chiến, chỉ đến khi cuộc chiến chịu sự thất bại, gây nhiều tổn thất nặng nề tạo nên khủng hoảng trong đường lối, mâu thuẫn trong nội bộ, Mỹ không nhận được sự ủng hộ của Quốc hội Mỹ cũng như vấp phải sự lên án, phản kháng quyết liệt của nhân dân Mỹ, Mỹ mới chịu ngồi vào bàn đàm phán với ta.
Về phía ta: Ta đã sáng suốt nắm bắt tình hình, vận dụng linh hoạt các biện pháp quân sự, chính trị và giành được nhiều thắng lợi lớn trên chiến trường, từ đó tạo bước đệm tiến tới giành thế chủ động, áp đảo trong mặt trận ngoại giao.


2. Giai đoạn 2 (1968 – 1973)
Nhận thấy tầm quan trọng của ngoại giao và hoạt động đối ngoại, ta đã nhanh chóng mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào ủng hộ Việt Nam. Đồng thời, đối với địch, ta đã nhanh chóng chuyển hướng đấu tranh, lấy ngoại giao làm vũ khí sắc bén phục vụ cho công cuộc cách mạng. Cùng với thắng lợi Xuân Mậu Thân năm 1968 trên chiến trường, trước sức ép của công luận quốc tế và phong trào phản chiến của Mĩ sau đợt tấn công của ta, nhà cầm quyền Mĩ từng bước phải chấp nhận xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán trong thế bị động. Mĩ lẩn tránh bằng cách trì hoãn thỏa thuận địa điểm và ta đề nghị hai bên nói chuyện chính thức ngay tại Paris. Mĩ không còn chỗ lùi buộc phải ngồi vào đàm phán từ 13/5/1968. Đây là trung tâm báo chí và đầu mối thông tin quốc tế tạo thuận lợi cho ta gắn đàm phán với đấu tranh của dư luận. Trong suốt giai đoạn đầu của cuộc đàm phán, ta kiên trì một nguyên tắc duy nhất là Mĩ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Song Mĩ lại ngoan cố đòi phải “có đi có lại” thì chúng mới chấm dứt chiến tranh. Nhưng ta vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, đồng thời lợi dụng những mâu thuẫn trong tập đoàn chính trị ở Mĩ lúc cuộc tranh cử tại Mĩ diễn ra quyết liệt nhất và ta đã giành được thắng lợi có tính chiến lược. Đó là: từ 1/11/1968 Chính quyền Gionson buộc phải chấm dứt không điều kiện ném bom bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và đồng ý có một hội nghị 4 bên ở Paris nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam. Tuy bị lùi một bước, Mĩ và tay sai Thiệu- Kì vẫn ngoan cố giữ thái độ phá hoại cản trở công việc của Hội nghị Paris. Chủ trương của chính quyền Nich-xơn là vừa tham gia Hội nghị Paris vừa thực hiện chương trình “Việt Nam hóa” chiến tranh. “Việt Nam hóa chiến tranh là ý đồ đen tối của chính quyền Mĩ, Mĩ dùng Hội nghị Paris làm bình phong để che đậy việc “Việt Nam hóa” chiến tranh. Nhận biết được ý đồ của Mĩ, mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vừa kiên trì nguyên tắc vừa mở ra triển vọng giải quyết hợp lí hợp tình vấn đề Việt Nam. Giải pháp này đạt được sự đồng tình và ủng hộ của các chính phủ và nhân dân ưa chuộng hòa bình, công lí trên thế giới của nhân dân tiến bộ Mĩ. Điều này ngày càng phát huy tiến công đẩy mạnh phong trào đòi chính quyền Nich-xơn phải chấm dứt xâm lược, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, triệt để tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Mỹ đưa ra kế hoạch 8 điểm rút quân có điều kiện, đòi hai bên cùng rút quân, tiếp tục duy trì bọn bán nước Thiệu - Kỳ - Khiêm, chống lại việc thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời. Kế hoạch này gặp sự phản đối của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và của nhân dân Mỹ. 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập.
Trong lúc đó, 5/1969, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 16 bàn về tình hình và nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trân ngoại giao.
Đầu năm 1969, sau khi trúng cử Tổng thống, Nich- xơn đặt ra “Học thuyết Nich-xơn, đề ra chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế” thay cho chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Ken-nơ-đi đã bị phá sản ở Đông Dương và trên thế giới. Thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh đồng thời tăng cường quân đội tay sai để giảm xương máu người Mĩ trên chiến trường. Thực chất đó là sự tiếp tục thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt.”
Ngày 17/9/1970, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã đưa ra giải pháp 8 điểm cùng với những thắng lợi quân sự và chính trị của quân dân ta trên chiến trường là đã giáng những đòn mạnh vào chính quyền Nich-xơn muốn xúc tiến việc Việt Nam hóa chiến tranh. Cùng lúc đó, chính phủ Mĩ đưa ra kế hoạch 5 điểm để che giấu thái độ ngoan cố, lừa gạt và xoa dịu dư luận trong nước và thế giới.
 Năm 1971, nhân dân ta tiếp tục phát huy thế chủ động, tiến công trên mặt trận ngoại giao. Trong thời gian này, Chính phủ Việt Nam đưa ra các giải pháp 9 điểm và 7 điểm. 
Những thắng lợi quân sự, chính trị trên đây đã làm phá sản bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh và “Đông Dương hóa” chiến tranh của Mĩ, mở ra khả năng thực tế làm phá sản hoàn toàn chiến lược đó.
Từ năm 1969 đến giữa năm 1971, cuộc vật lộn gay go trên chiến trường và diễn biến phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn không ngừng tác động đến cuộc đàm phán Paris. Song từ khi ngồi vào bàn thương lượng bốn bên, với uy thế của chiến thắng Tết Mậu Thân và sức mạnh của đoàn kết quốc tế, ta đã phát huy thế tiến công. Trong phiên họp bốn bên đầu tiên, ta đã công bố lập trường 5 điểm của Mặt trận nêu rõ những nguyên tắc và mục tiêu tham gia đàm phán và làm rõ chính sách đối ngoại hòa bình, trung lập. Vấn đề thống nhất nước nhà sẽ thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình. 
Để nêu cao thiện chí hòa bình, tranh thủ dư luận, từng thời kỳ, theo sự chỉ đạo của Đảng, đoàn đàm phán đưa ra các đề nghị hòa bình, tận dụng được yếu tố “Đấu tranh chính nghĩa” để đưa ra các đòi hỏi chính đáng của nhân dân Việt Nam như Mĩ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân vô điều kiện, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Đồng thời chúng ta trình bày các giải pháp thỏa đáng để giải quyết vấn đề như lập chính phủ liên hiệp, tổ chức tổng tuyển cử tự do,…. Giữa năm 1971, khi phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ lên cao đòi chính quyền rút quân và đưa tù binh, phi công Mĩ bị bắt về nước, khi đó, ta đã đưa đề nghị chính quyền Mĩ phải định thời hạn rút hết quân từ trước ngày 31/12/1971 và khẳng định thời hạn rút hết quân cũng là thời hạn thả hết tù binh. Việc này đã tác động mạnh mẽ đến nội bộ nước Mĩ và làm tăng sức ép đòi Oa-sinh-tơn đáp ứng những yêu cầu của phía ta. Việc kết hợp đàm phán với đấu tranh dư luận tiến bộ trên toàn thế giới đã góp phần tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận. Phối hợp với thắng lợi trên chiến trường, đấu tranh tại bàn đàm phán đã góp phần mở rộng và tăng cường nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. Đồng thời trong giai đoạn này, ta cũng bày tỏ tình đoàn kết, ủng hộ các cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Cu-ba, Ni-ca-ra-goa, Nam Phi, Dim-ba-bu-ê, Na-mi-bi-a, Pa-lex-tin… . Điều này đã gắn kết cuộc chiến đấu của Việt Nam với đấu tranh của nhân dân các nước. 
Ngày 25/01/1972, Mĩ đưa ra “kế hoạch hòa bình 8 điểm” đồng thời đơn phương công bố nội dung các cuộc gặp riêng giữa Mĩ và đại diện nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 2 tháng sau chúng tuyên bố ngừng không thời hạn cuộc Hội đàm Clebe. Trước Việc Mĩ gây sức ép ngoại giao qua các lực lượng trung gian khác nhằm phá hoại Hội nghị Paris, mùa xuân năm 1972, Đảng ta quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. 30/3/1972, quân ta bắt đầu cuộc tiến công chiến lược theo kế hoạch của Quân ủy trung ương. Sau đòn bất ngờ của quân ta, quân Ngụy được sự yểm trở tối đa của hỏa lực, không quân và hải quân Mỹ, đã phản công mạnh, gây thiệt hại cho ta. Phối hợp với Ngụy, chính quyền Nich-xơn “Mĩ hóa” trở lại một phần cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và quay trở lại tiến hành cuộc chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc từ 6/4/1972. Sau Tổng tiến công xuân hè 1972, thấy có khả năng kết thúc chiến tranh nên Bộ chính trị quyết định: phát huy chiến thắng, thế vững vàng và chủ động tiếp tục thế tấn công ở bàn đàm phán và tăng cường vận động quốc tế. Tháng 9/1972, Bộ chính trị đề ra chủ trương mới về đàm phán ở Paris, nhằm chấm dứt mọi sự dính líu quân sự của Mỹ, thay việc đòi đánh đổ chính quyền Thiệu bằng việc đòi lập chính phủ hòa hợp dân tộc đa thành phần. 
26/10/1972, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho công bố 4 văn kiện Hiệp định mà Việt Nam và Mỹ đã thỏa thuận trong cuộc đàm phán ở Paris và đòi Mĩ phải ký ngay văn bản đã được hai Chính phủ chấp thuận. 
Từ tháng 10/1972 đến 1/1973, chiến lược “Việt Nam hóa” đã thất bại. Tình thế buộc Mỹ phải lựa chọn giải pháp rút khỏi chiến tranh bằng con đường thương lượng, đàm phán. Khi đó, ngày 8/10/1972 Phái đoàn VNDCCH đưa cho phía Mỹ dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ” và hai bên thảo luận cụ thể từng điều khoản và trong bức thư gửi Thiệu ngày 16/10/1972, Ních-xơn chấp nhận “chúng ta không còn cách lựa chọn hợp lý hơn nào khác ngoài việc chấp nhận Hiệp định này”. Như vậy, về chiến lược, bước đi, thời cơ chuyển giai đoạn bắt đầu đến kết thúc đàm phán đều do ta quyết định trên cơ sở gắn đàm phán với cục diện trên chiến trường, tình hình quốc tế và nội bộ nước Mĩ. Cuối cùng, Hiệp định hòa bình về Việt Nam được ký tắt ngày 23/1/1973 và ký chính thức ngày 27/1/1973. Hai bên đã thống nhất một số điểm chính của Hiệp định:
  - Mỹ và các nước khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
  - Chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Mỹ chống lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Rút hết quân Mỹ và đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình.
  - Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một bên của "hai bên miền Nam Việt Nam" ; phải công nhận trên thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội và hai vùng kiểm soát.
 Mỹ phải đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam.Quá trình thực hiện phương châm “vừa đánh, vừa đàm”, Việt Nam có bốn lần giành thắng lợi từng bước: Buộc Mĩ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc; Ép Mĩ đơn phương rút dần quân về nước; Buộc Mĩ ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh. Hiệp định Paris là một thắng lợi tổng hợp của cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Thắng lợi này có ý nghĩa quyết định đối với chiều hướng và kết cục của chiến tranh, mở đường cho toàn thắng mùa xuân năm 1975.

IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ

Đế quốc Mỹ phát động chiến tranh xâm lược quy mô lớn chống lại nhân dân Việt Nam, thể nghiệm chiến lược “phản ứng linh hoạt” nhằm ngăn chặn những biến đổi cách mạng đang diễn ra trên toàn cầu, đã làm quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp. Cục diện chiến trường tuy đang có lợi cho ta nhưng vẫn đang ở trong thế giằng co quyết liệt. Vì vậy, cuộc đấu tranh giữa ta và đế quốc Mỹ trên mặt trận ngoại giao, vận động quốc tế cũng diễn ra rất gay gắt.

1. Trong bối cảnh quốc tế có những diễn biến phức tạp, hoạt động ngoại giao của ta đã góp phần tích cực, đưa cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân ta hòa nhập nhanh chóng với trào lưu đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Điều đó đã tạo sức mạnh chính trị và dư luận quốc tế ngày càng có lợi cho công cuộc kháng chiến, góp phần đáng kể vào sự hình thành một tập hợp lực lượng rộng rãi ở Đông Dương, ở nước Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới, hỗ trợ có hiệu quả về tinh thần và vật chất, kỹ thuật cho công cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.

2. Làm thất bại một bước chính sách hòa bình, một bộ phận của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Phát huy thế chủ động trên mặt trận đối ngoại, ta đã tổ chức cuộc tiến công ngoại giao đúng lúc, làm cho Mỹ càng thêm cô lập và bị động xuống thang chiến tranh, từng bước buộc Mỹ đi vào thế trận vừa đánh vừa đàm có lợi cho ta.

3. Với thắng lợi Tết Mậu Thân năm 1968, ta đã buộc Mỹ phải bị động thay đổi chiến lược chiến tranh và chấp nhận từng bước ngồi vào bàn đàm phán từ hai bên đến bốn bên, đã đưa đến hình thức đấu tranh mới: Nước nhỏ buộc “đế quốc to” xâm lược phải trực tiếp đàm phán kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược. Từ đó ngoại giao nước ta trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán nhằm phát huy thắng lợi ở chiến trường và tạo sức ép của các lực lượng quốc tế khác nhau, kiềm chế ý đồ phá hoại cuộc đàm phán, từng bước đánh bại chủ trưởng “thương lượng trên thế mạnh” của Mỹ.
Những nhân tố trên cùng với các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần làm cho hoạt động ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ giành thắng lợi quyết định có bước trưởng thành vượt bậc về lượng và chất, đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp “đánh cho Mỹ cút” của nhân dân ta.

4. Trong ba năm 1969-1971, đàm phán không tiến triển, nhưng cuối năm 1971, ta giành thắng lợi quan trọng: Mỹ từ bỏ yêu sách đòi quân miền Bắc rút. Trong đề nghị 11/10/1971, Mỹ không còn nêu vấn đề quân miền Bắc. Rút quân miền Bắc là đòi hỏi cơ bản, then chốt nhất của Mỹ. Với ta, giữ nguyên lực lượng chính trị và vũ trang của ta ở miền Nam là nguyên tắc lớn nhất và bất di bất dịch. Nay Mỹ đã từ bỏ yêu sách lớn nhất của mình, chấp nhận nguyên tắc lớn nhất của Việt Nam, trở ngại lớn nhất trong đàm phán đã được loại bỏ. Thắng lợi của Việt Nam đã cầm chắc.

5. Cuối năm 1972, đầu 1973, chúng ta phát huy thắng lợi trên chiến trường, lợi dụng được sự lúng túng của đối phương, buộc Mỹ ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ. Hiệp định Paris là thắng lợi có ý nghĩa quyết định chiều hướng chiến tranh, mở đường cho thắng lợi trọn vẹn vào hai năm sau. 


KẾT LUẬN

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ, chúng ta đi từ chính sách đánh ngụy để đuổi Mỹ sang chính sách sử dụng công thức trung lập ngăn không cho Mỹ trực tiếp đưa quân vào Việt nam . Nhưng công thức này thất bại, đầu 1965, Mỹ cho quân vào Việt Nam. Lúc này, ta chuyển sang chính sách đánh cả Mỹ lẫn ngụy. Đặt trong toàn cục, ta không thể và cũng không chủ trương đánh gục đối phương hoàn toàn bằng quân sự, không coi đó là giải pháp duy nhất để kết thúc chiến tranh. Vấn đề mấu chốt là làm thất bại ý chí xâm lược của chúng, vô hiệu hóa mục tiêu chiến tranh xâm lược mà chúng đang theo đuổi, chủ động mở lối thoát cho cuộc chiến. Như vậy, ta đã xã định rõ cục diện đánh đàm chỉ phát huy hết sức mạnh khi ý chí xâm lược của địch đã bị đánh bại. Sau thắng lợi tết Mậu Thân năm 1968, tình thế thất bại của Mỹ thật rõ ràng. Với điều kiện trong nước và quốc tế có lợi cho ta, ý chí xâm lược của Mỹ đã bị đánh bại. Chiến lược đánh - đàm lúc này là phù hợp với chủ trương mà ta đã đề ra. Ta dùng đàm phán để kết thúc chiến tranh. Đồng thời, với một kẻ thù ngoan cố như Mỹ, ta kết hợp với những đợt tập trung cao độ tấn công quân sự trên chiến trường vào những thời điểm chiến lược để thúc đẩy tiến trình đàm phán. Nắm bắt đuợc thời điểm chín muồi để cục diện đánh – đàm phát huy hết sức mạnh là thành công của chúng ta. Quan điểm của Đảng ta về vừa đánh vừa đàm đã thể hiện đường lối độc lập tự chủ. Đánh cũng theo kiểu của ta, đàm cũng theo kiểu của ta. Thế trận đánh - đàm đã buộc đối phương bộc lộ chỗ yếu nhất trong chiến lược chiến tranh, mặt khác tạo thời cơ để phát huy hết sức mạnh chính nghĩa; phối hợp chính trị- quân sự- ngoại giao và sức mạnh cộng hưởng của dân tộc và thời đại, góp phần đưa lại chiến thắng vang dội cho dân tộc ta, thống nhất nước nhà.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét